Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Phân tích KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 1 LÝ THUYẾT DOW

Trong phân tích kỹ thuật chứng khoán thì lý thuyết Dow là cơ sở trước tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường. Nó là cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của bạn dạng thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của phân tách cơ bản là các thống kê hoạt động kinh doanh của đơn vị.

Video bài giảng phân tích kỹ thuật thuật về lý thuyết Dow của thầy Trương Bình

LỊCH SỬ hiện ra VÀ phát triển LÝ THUYẾT DOW TRONG phân tích KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Trong những ghi chép của người trước tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ biến thành một công cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã biến thành một chỉ dẫn chung cho các nhà đầu tư. Những biên chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ biến thành một thước đo bất định bình thường của thị trường. Dow thành lập tổ chức “Dịch vụ thông báo tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết tới với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những qui định căn bản của thuyết giáo (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm chỉnh sửa cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã đơn vị và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như hiện tại.

tò mò về lý thuyết của Dow, đầu tiên ta phải nghiên cứu tới chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn bình thường giá chứng khoán của tất cả các doanh nghiệp đều cùng lên và xuống. Tuy nhiên, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng trái lại xu thế chung của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tại cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán tăng nhanh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá mau lẹ Ngoài ra có một số kì cục tăng lên, nhưng mà thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều chao đảo theo cùng một xu thế bình thường.

Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản chiếu xu thế thông thường của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được xuất hiện vào năm 1897 và vẫn còn cho tới cho tới hiện tại được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế phổ biến của thị trường. Một trong nhị loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 doanh nghiệp hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 doanh nghiệp mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 tổ chức vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.

12 cách thức quan trọng TRONG LÝ THUYẾT DOW ĐỂ phân tách KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 phương pháp quan trọng cần chú ý sau:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

vì nó phản ánh những hoạt động có liên hiệp với nhau của hàng nghìn nhà đầu bốn, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông báo tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng tới cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự trù được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ảnh ngay vào giá của các loại chứng khoán.

2. Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán khái quát, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những cô động tăng hoặc giảm với quy mô mập, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng vì các bởi sự xen vào của các nao núng cấp 2 theo hướng đối chọi – gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những bất định này hình thành khi khuynh hướng cấp 1 tạm vượt quá mức độ ngày nay của bạn dạng thân nó (gọi bình thường các bất định này là các bất định trung gian – biến động cấp 2). Những bất định cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những cô động hàng ngày và không có ý nghĩa quan yếu trong Lý thuyết Dow.

3. Xu thế cấp 1

Như đã nói tới ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động to của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt tới mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá – thị trường lúc này là thị trường con bò tót – thị trường tăng giá (Bull Market) Còn trái lại nếu mỗi cô động giảm đều khiến cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để khiến cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu – thị trường giảm giá (Bear Market).

thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu bốn dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu bốn đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng thế hệ có độc nhất vô nhị mình anh ta bắt đầu mua và sau đó nắm giữ tới khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự xong và khởi đầu Bear Market. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các nao núng bé bởi họ đầu bốn dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Ngoại giả với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những bất định của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng vì họ kiếm lợi nhuận dựa trên những cô động ngắn hạn của thị trường

4. XU THẾ CẤP 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tương tác làm cách trở quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm lâm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh hiện ra ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là bình phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần tới nhiều tháng. Chúng sẽ kéo trái lại khoảng 1/3 tới 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Bởi vì đó, chả hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tiếp bình ổn hoặc có cách quãng rất nhỏ và mức tăng đạt tới 30 điểm, khi đó sinh ra xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể chờ mong xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 tới 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế upgrade 1 lúc đầu của nó.

Dẫu sao cũng cần xem xét là qui tắc giảm 1/3 tới 2/3 không phải là một lề luật không thể phá vỡ vạc mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về kỹ năng có thể xảy ra nhưng mà hầu hết các cô động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tương tác ở điểm gần với mức 50% nhưng mà rất hi hữu khi đạt tới mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít ra 3 tuần và kéo hoàn lại chí ít 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm ngừng biến động cấp 2 trước đó tới cô động cấp 2 này, bỏ qua những động dao nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là cô động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những gian khổ trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian sinh tồn của xu thế.

5. Xu thế bé (Minor)

Đây là những ngả nghiêng trong thời kì ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) nhưng mà theo như thuyết Dow đã nói đến, phiên bản thân chúng không thực thụ có ý nghĩa mà chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thường ngày thì một cô động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa nhì xu thế cấp 2 liên tục, đều được chia thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động bé không giống nhau. Xu thế bé là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao tiếp với khối lượng rất to và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ định nghĩa về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với cô động của sóng đại dương với một số điểm giống nhau như sau:

Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về đại dương. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về biển. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là bởi vì sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ hồ như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó.

Mặt hồ cũng luôn luôn cô động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng mập – những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những nghiêng ngả hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn phê duyệt đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.

6. Bull Market (thị trường con bò tót – thị trường tăng giá)

Một xu thế tăng giá căn bản thường bao gồm 3 thời gian.

thời kì trước tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tứ có tầm nhìn xa sẽ tiến hành phê chuẩn các đơn vị, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng mà nhà đầu tư nhận thấy kỹ năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình sinh ra tăng trưởng hối hả, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời khắc nhưng mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi vì những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo âu về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường sinh ra sự suy giảm trong khối lượng giao tế. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán do họ thấy lượng tiền đã đầu tư của họ đang giảm giá trị nhanh lẹ và có nguy cơ còn giảm nữa, do thế mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối thời đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của đơn vị và trong những cô động trên thị trường đã có những lay động tuy mới chỉ ở mức hạn chế, khởi đầu sinh ra những đợt tăng giá nhỏ.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững bền. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia đẩy mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ đơn vị và doanh thu của nó cũng tăng dần và khởi đầu lôi cuốn các mối quan hoài trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo môn phái phân tách kỹ thuật.

cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời gian này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông báo tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức mường tưởng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Tới thời khắc sau khoảng hai năm tính từ lúc thị trường mở đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này thế hệ kiên cố cho lợi nhuận của họ và muốn tham dự vào thị trường. Mà đích thực thì sau nhì năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” Chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” Nữa. Vào cuối thời gian thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao thiệp vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket-stock”* xuất hiện càng ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp mà không có giá trị đầu bốn cũng ngày càng tăng và cả những đợt tạo ra trái khoán cũng ít dần đi.

(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách thất thường – có thể là do nhà đầu bốn bán ào ạt bởi một tin đồn xấu. Lý do sử dụng định nghĩa này là vì nó được so sánh với việc phi cơ đột ngột mất độ cao, ngoài kỹ năng kiểm soát khi chạm chán air-poket là những dòng khí hướng xuống, liên quan làm mất chiều cao máy bay)

7. Bear Market (Thị trường con gấu – thị trường giảm giá)

Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ.

Thời kỳ trước tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này đích thực khởi đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có góc nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những đơn vị mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không chung và họ muốn lập cập thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những tổ chức này. Khối lượng giao tế vẫn rất cao mặc dầu đã có những dấu hiệu của khuynh hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” mà cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ “hỗn loạn”. Số lượng người mua mở đầu giảm dần và những người bán mở đầu trở lên nhanh nhẹn bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá mở đầu tăng cường làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao tiếp đạt đến mức cực điểm. Thời đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với chừng độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn phục hồi (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một thời đoạn ngả nghiêng ngang của đồ thị thị trường (các nao núng không có hướng đi lên hay đi xuống nhưng mà là dao động trong một khoảng một mực theo chiều ngang của thị trường) trong một thời kì tương đối dài. Thời đoạn này biểu hiện tâm lý chán nản của một phòng ban nhà đầu tứ, họ cũng chính là những người đã nỗ lực nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông báo về các đơn vị ngày càng xấu đi. Ngừng thời đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, mà lại được duy trì bởi vì những lệnh bán nhiều và liên tục biểu đạt “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu bốn đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm tới mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như thường được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở thời đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của cục bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ hội tụ vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market dứt tất cả với những tin xấu về các công ty, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã biểu lộ ra và có thể đến

8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng công nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các phương pháp của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho tới nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng mực và nó vẫn được áp dụng cho tới hiện tại và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều chẳng thể có ý kiến phản đối với phương pháp này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ lỡ nguyên tắc này thì trong thực tiễn kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy nuối tiếc. Điều cách thức này muốn nói tới là chẳng thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ duyệt coi xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có nhị loại chỉ số bình quân).

Phân tích kỹ thuật chứng khoán - ký thuyết dow

phân tích kỹ thuật chứng khoán – ký thuyết dow

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng công nhận một sự đảo chiều trong xu thế ngày nay của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta thế hệ có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một bất định nào khác nếu không chỉ độc nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng thông thường của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một thí dụ áp dụng phương pháp về sự công nhận. Không quan trọng cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả nhì chỉ số này sẽ cùng chuyển động tới cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng mà có nhiều trường hợp nhưng một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một tới hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu bốn phải giữ kiên nhẫn và đợi cho tới khi thị trường thật sự biểu hiện ra thực chất xu hướng của nó.

9. Khối lượng giao tiếp ứng dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này miêu tả một thực tại là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có khuynh hướng mở rộng hơn. Bởi vậy, với Bull Market, khối lượng giao tiếp sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao thiệp sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức thị với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong thời đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi nhưng mà các cốt truyện của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên tình tiết trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao tế lẻ tẻ. Nguyên tắc này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao du phổ biến trong thời kì giao thiệp tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá thế hệ có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao du chỉ có thể hỗ trợ thêm những bằng chứng phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những cảnh huống khi dấu hiệu đính tỏ ra còn nhiều nghi hoặc.

10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.

Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có thuộc tính trung gian của thị trường phản ảnh thời kỳ nhưng giá bất định rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 tới 3 tuần hoặc thỉnh thoảng là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình trạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng sức ép của cung và cầu trên thị trường là tương đối thăng bằng.

thực tại trong thời đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều biểu đạt một sự kiệt lực. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu nhưng mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có bất định dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Cho nên một mức giá nao núng vượt ra ngoài mức nao núng của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của chao đảo vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ nghiêng ngả càng nhỏ thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng bự.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài trọn vẹn để khoảng thời kì sống sót của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với những người phân tích thị trường theo môn phái Dow. Những cô động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là thời đoạn “phân bổ” – giai đoạn ban sơ của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” – giai đoạn đầu của một Bull Market. Thường nhật nhất, nó nhập vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc thời đoạn rốt cuộc trong quá trình xuất hiện hoặc thuộc thời đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức bất định 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tại rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm như nhau với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ bự hơn mà nhì biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11. Chỉ dùng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức cô động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày nhưng chỉ quan hoài đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

phê chuẩn một thị trường với xu thế căn bản là tăng giá và đang ở thời khắc giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, ví thử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể công nhận thị trường vẫn đang trong xu thế căn bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan hoài đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để ngờ vực liệu xu thế tăng giá ngày nay có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt nghiêng ngả giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc công nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất kỳ một nghiêng ngả nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá chỉnh sửa thậm chí đến 0. 01 Và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt chí ít 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12. Một xu thế cần được giả thiết rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu đích thực về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

cách thức này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh luận nhất. Nhưng khi được hiểu chuẩn xác nó vẫn có giá trị rất béo trong phân tích thị trường. Phép tắc thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong ý kiến về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tứ trì hoãn hành động của mình lại một cách không quan trọng, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, mà nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết kì vọng cho tới khi họ vững chắc về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. Kỹ năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng do thực chất của nó là những bất định thực tiễn của thị trường và chúng chỉnh sửa thường xuyên. Bull Market chẳng thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt tới đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa thế hệ được xuất hiện thì cho dù có những ngả nghiêng trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức kiên cố càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ càng ngày càng thấp giả dụ Bull Market đã sống sót trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới sinh ra.

Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự chỉnh sửa của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Cho nên bất cứ nhà đầu tứ nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét